Thứ Hai, 29 tháng 9, 2008

SÀI GÒN XƯA QUA THƠ

Sài Gòn Xưa Qua Thơ
"Đây là bộ sách ít ai giữ được và trở nên một tập phẩm hiếm có của những người chơi sách." Cụ Vương Hồng Sển đã viết như thế trong tác phẩm Sài Gòn năm xưa (tr.244 - in bản năm 1968) về những cuốn sách của ông Nguyễn Liên Phong: Nam-Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909), Điếu cố hạ kim (1915) .Qua đây chúng ta có thể thấy được đôi nét về Sài Gòn từ đầu thập niên 10 của thế kỷ nàỵ
Trong phần tự của quyển sách này , tác giả viết :
Năm Nhâm dần, tháng giêng ngày vọng
Nhơn lúc nhàn, vỏ lộng bút nghiên
Dạo Nam Kỳ, sáu tỉnh sơn xuyên
Xem nhơn vật , đủ miền mọi chổ
Ơn từ hải, đệ huynh điều độ
Giúp hành trình, phí lộ kim ngân
Hơn năm dư, chép thảo lần lần
Thành một cuốn, xa gần các hạt
Cách đặt dùng quấc âm lục bát v.v.
Qua bài tựa này, chúng ta có thể hiểu rằng, tác giả đã ngao du đây đó , những điều mắt thấy, tai nghe được chắc lọc đưa vào thơ. Chính nhờ " thâm nhập thực tế " nên trong tập sách này ngồn ngộn những tư liệu, những sự việc, ở đây không có chổ cho trí tưởng tượng, hư cấu. Nhờ vậy, tập sách này có giá trị cho những ai muốn tìm hiểu về Nam Kỳ thuở đó.
Sau phần tựa, tác giả dành 220 câu lục bát miêu tả địa thế, địa lý Nam kỳ, đi sâu miêu tả từng vùng đất: Vũng Tàu, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định , Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An,...
Chẳng hạn, về Sài Gòn, tác giả ghi nhận :
Thứ nhứt đường Ca-ti-na
Hai bên lầu cát phố nhà phân minh
Bực thềm lót đá sạch tinh
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đềụ
Hàng hóa thời đó khá phong phú:
Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
Ăng lê , Nhựt Bổn món gì cũng sang.
Từ đó nẩy sinh một tầng lớp lao động mới :
Chực đường có trẻ cu-li
Kêu đâu sẵn đó đem đi lẹ làng
Lớp thời xuống bến Nam Vang
Lớp qua Khánh Hội lớp sang Nhà Rồng.
Lớp xe về lối ngoài trong
Lớp đi theo dõi mấy ông dọn nhà.
Khung cảnh Sài Gòn những năm đó đã được mô tả hết sức sống động:
Phong lưu cách điệu ai bằng
Đường đi trơn láng đèn giăng sáng lòạ
Nhà hát lớn được xây dựng: "lối năm 1898 , đến ngày 1 tháng giêng năm 1900 ăn lễ lạc thành lớn lắm" (Vương Hồng Sển , sđđ , tr.106) - thì chín năm sau nó được ông Nguyễn Liên Phong đưa vào thơ như thế này:
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba
Với đêm chúa nhật hát Nhà hát Tây
Nước nào tục ấy cũng hay
Tiếng đờn tiếng hát nghe say tính tình
Nhà hát cất giữa châu thành
Họa đồ lấy kiểu bên thành Ba-rị
Kế đến , tác giả miêu tả nhà thờ Đức Bà (đặc viên đá đầu tiên vào ngày 7-10-1877 , đến ngày 11-4-1880 thì làm lể khánh thành):
Đá xây bốn phiá vách thềm
Mặc nền hoa thạch trơn êm làu làu
Lầu chuông chót vót vọi sâu
Hai cây thánh giá hai đầu trên cao
Đồng hồ chỉ đúng khắc sao
Người qua kẻ lại nhắm vào phân minh
Kế bên nhà thờ còn :"có tòa dây thép coi phần điển thơ" với các phương tiện vận chuyển bưu chính:
Biên Hòa còn dạng xe tờ
Mới bày bảy giờ xe máy Tây Ninh.
Xe tờ ở đây nghĩa là một thứ xe có bốn bánh gỗ bọc sắt, cao lêu đêu, thùng rộng, trước có băng ngang hẹp dành cho người cầm cương, sau có hai băng dọc đối diện dành cho hành khách, do hai con ngựa kéo. Vì xe chở công văn tờ trát của nhà đương cuộc nen được gọi tắc là "xe tờ".
Tác giả cũng nhắc đến các trường học như trường Chasseluop Laubat (nay là trường Lê Quí Đôn), trường Taberd (nay là trường Cao đẳng sư phạm ):
Nam Kỳ sĩ tử tinh nguyên
Nhiều người thành đạt liền liền trước sau
Taberd trường lập đã lâu
Dekerland trước làm đầu khởi rạ
Qua những câu thơ này, ta biết trường Taberd, còn gọi là trường Thày Dòng , do cha Henri De Kerlan thuộc hội truyền giáo lập ra năm 1874.
Một trong những nơi quen thuộc với Sài Gòn là "Bồn Kèn" - góc nhà hàng Continental và nhà hàng Pancrazi. Tác giả kể một chi tiết thú vị:
Gặp Tường thời trị mắng ngay
Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè
Phan Văn Trị mất năm 1910 rõ ràng cuộc bút chiến giữa ông với Tôn Thọ Tường đã gây được tiếng vang và ảnh hưởng chính trị lúc bấy giờ. Thế thì tại sao lại gọi là "Bồn Kèn"? Tác giả giải thích:
Mu-dích (musique) nơi các Bồn Kèn
Vui lòng hừng chí nghe bèn giải khuây
"Mỗi chiều thứ bảy tại bệ này có mấy chú lính săn-đá trỗi nhạc Tây cho đồng bào ta thưởng thức"(Vương Hồng Sển , sđđ - tr.97). Thời đó đã có lệ báo giờ vào buổi trưa :
Có chổ cân giờ nhựt trung
Trên tàu Ông Thượng đặt vòng địa la
Có ba năm phút vậy mà
Đem đồ hiệu lịnh kéo qua cột cờ
Đợi đến đúng mười hai giờ
Đồ kia rớt xuồng súng hờ giựt dây
Nổ lên một tiếng vang vầy
Châu thành bồn phía sum vầy giấc trưạ
Về lãnh vực báo chí, tác giả cho thấy báo chí thời ấy đã khá phát triển:
Phan-sa, quốc ngữ nhựt trình
Mổi tuần in bán sự tình lăng xăng
Gia định bào là công văn
Phát ra các hạt lệ hàng không sai
Về phía địa danh Bến Nghé đến nay vẩn còn nhiều cách giải thích khác nhau , thì theo tác giả:
Nguyên xưa rậm tạp còn rừng
Trâu thường dằm tắm hoặc chừng nghé kêu
Ngày nay phong cảnh tốt đều
Tàu ghe lớn nhỏ đậu bèo hai bên
Đò dọc rước mối xuống lên
Giành nhau xâu xé vang rên cả ngày
Ghe bầu sắp lớp đậu ngay
Những câu thơ cho thấy cảnh sầm uất của Bến Nghé những năm đó.Tác giả thường thích ngao du, cho nên không một chi tiết nào ông bỏ sót cả. Cả ông chủ nhà in nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Đinh Thái Sơn - chủ nhà in Phát Toán củng có mặt trong tác phẩm của Nguyển Liên Phong:
Đinh Thái Sơn người Nghệ An
Gốc dòng khoa mục rõ ràng trâm anh
Vào Nam kỳ thuở xuân xanh
Theo Lê Bá Đẳng học hành lập thân.
Nay đọc lại tập thơ của ông Nguyễn Liên Phong , chợt nhớ lại khung cảnh đã qua mà không bao giờ còn được thấy lại nữa:
Cột cờ Thủ Ngữ nghiêm trang
Có nhà đánh thuế hóa hàng bạn buôn
Xe lữa nhỏ đi luông tuồng
Chổ người đông đảo rung chuông liền liền
Chạy dài theo mé giang biên
Tới chợ Ông Lãnh phố liên ra vàọ
Trên đây chỉ là những chi tiết vụn vặt mà thôi . Nhưng không kém về phần giá trị cho những ai quan tâm đến việc dựng lại Sài Gòn thuở đầu thế kỷ XX.