Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ |
Có khá nhiều câu chuyện thần thoại liên quan đến lai lịch của chùa Thiên Mụ. Một trong những chuyện ấy kể rằng từ xa xưa, dân chúng địa phương đêm đêm thường thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi mà chùa tọa lạc ngày nay, và nói : Rồi sẽ có chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ long khí cho bền long mạch. Hễ nói xong là bà biến mất. Từ đó ngọn đồi được gọi tên là Thiên Mụ Sơn (núi Bà Trời).
Sau khi vào trấn thủ Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) một lần đi qua đây chơi nghe kể chuyện, liền tự nhận mình là vị chân chúa ấy, nên cho xây chùa và đặt tên là Thiên Mụ Tự.
Thật ra, ngôi chùa đã có tại chỗ từ trước năm 1555, vì trong sách Ô Châu Cận Lục viết vào thời điểm ấy, tác giả Dương Văn An đã từng nói đến ngôi chùa cổ này rồi. Có lẽ hồi ấy ngôi chùa còn đơn sơ nhỏ hẹp, kiến trúc chưa qui mô to lớn như về sau. Thế rồi, sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam (1558), một dạo đến chơi đây, vừa có được những gợi hứng tốt đẹp từ ngôi chùa cổ, vừa có thấy rõ ở đấy phong cảnh thoát tục hữu tình, nên năm 1601, chúa cho xây lại ngôi chùa một cách chính thức, chùa trở thành khang trang hơn.
Năm 1665, chùa được chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu. Cuối năm 1695, Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Ðại Sán) ở Quảng Ðông được chúa Nguyễn Phúc Chu (*) mời qua hoằng dương chánh pháp tại đây. Chùa càng trở nên nổi tiếng.
Năm 1710, vị chúa Nguyễn ấy cho đúc Ðại Hồng Chung và viết một bài ký để khắc chuông. Năm 1714, chúa sai Chương Cơ Tống Ðức Ðại đứng ra trông coi việc trùng tu và mở rộng ngôi chùa: xây thêm nhiều điện đài,đình viện, nhà cửa. Tất cả có đến vài chục công trình kiến trúc, nơi nào cũng huy hoàng tráng lệ. Công tác kéo dài 1 năm. Khi xong, chúa lại viết một bài ký, cho khắc bia đá để kỷ niệm, và nhờ người qua Trung Quốc thỉnh hơn 1.000 bộ kim sách Phật giáo về tàng trữ ở chùa.
Dưới thời Tây Sơn (1786-1801) chùa Thiên Mụ bị binh hỏa tàn phá rất nặng nề. Theo sử gia Phan Huy ích, đã có lúc triều đại ấy dùng chùa làm đàn Xã Tắc.
Vào năm 1815 và 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng cho tu sửa lại. Năm 1844, để kỷ niệm bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long) thọ 80 tuổi (Bát tuần Thánh thọ) vua Thiệu Trị cử Thống Chế Hoàng Văn Hậu đứng ra điều khiển công cuộc kiến trúc lại ngôi chùa một cách qui mô: xây thêm tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyện, dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua. Dưới thời Tự Ðức, sau những thất bại dồn dập trong việc nước, việc nhà, vua nghĩ có lẽ dùng chữ "thiên" đã động đến trời, cho nên danh từ "Thiên Mụ" có đổi ra "Linh Mụ" trong thời gian (1862-1869).
Năm 1899, để đóng góp công đức cho chùa nhân dịp lễ Cửu tuần Ðại Khánh Tiết (mừng thọ 90 tuổi) của bà Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị), vua Thành Thái cho Bộ Công "đại gia tu bổ" tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm.
Năm 1904, một trận bão dữ dội nhất xưa nay ở Huế, đã gây cho chùa nhiều thiệt hại nặng nề, trong đó có đình Hương Nguyện bị sụp đổ. Ba năm sau (1907), chùa được trùng tu. Năm 1920, vua Khải Ðịnh lại cho dựng bia đá gần tháp để khắc một bài thơ ngự chế ca ngợi cảnh chùa. Cuối cùng, chùa Thiên Mụ được tu sửa lớn một lần nữa vào cuối năm 1957. Trong đợt này, phần lớn các bộ phận kiến trúc trong điện Ðại Hùng đều được thay thế bằng bê tông giả gỗ.
xưa nay, bất cứ ai đến viếng cảnh chùa cũng đều thừa nhận rằng người chọn vị trí làm chùa là một Phật Tử có trình độ thẩm mỹ rất cao. Kiến trúc ngôi chùa được lồng vào trong một ngoại cảnh thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch. Nó thích hợp với Phật tính ở chỗ vừa cách biệt với những sinh hoạt tục lụy của thế nhân, nhưng lại gần gũi đối với những người con Phật mộ đạo ở chốn thị thành cách đó chưa đầy 4km.
Ngọn đồi đột khởi giữa quảng đất bằng, được nâng lên thêm bởi ngọn tháp Phước Duyên uy nghi cao cả. Dòng sông Hương thanh khiết uốn khúc trước chùa như để rửa sạch bụi đời cho tâm hồn và thể xác những người hướng đến và tìm về đạo pháp.
Vào thời cực thịnh của chùa, mật độ kiến trúc nơi đây thật dày đặc, vì có đến mấy chục công trình. Ngay từ bấy giờ, các nhà qui hoạch đã chia khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt nhau bởi cửa tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như cái đầu rùa, là nơi xây dựng những công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm, như bia đá, chuông đồng... và khu vực ở sau, thân rùa, dành để xây cất các điện thờ Phật và các nhà tăng, nơi các nhà sư ăn ở để tu hành, tụng niệm.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1715), mật độ kiến trúc ở phần sau dày hơn ở phần trước, nhưng từ thời vua Thiệu Trị (1846) và nhất là thời Thành Thái (1904) thì ngược lại, vì phần sau bị hư hại nhiều, phần trước xây dựng thêm.
Hiện nay, được đánh giá cao nhất trong chùa là các công trình nghệ thuật sau đây:
Phước Duyên Bửu Tháp: Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21m), dưới lớn trên nhỏ. Số 7 là con số linh của đạo Phật. Hệ thống bậc cấp trước chùa cũng tính theo số 7. Trong tháp có hệ thống bậc thấp thang xây cuốn từ dưới lên trên, chỉ trừ giữa tầng thứ 6 và tầng thứ 7 là phải dùng cái thang di động bằng gỗ và cái cửa với chìa khóa đặc biệt, vì ở tầng trên cùng này xưa kia có thờ tượng Phật bằng gỗ.
Ðại Hồng Chung: Chuông cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2.052kg, là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng rất xuất sắc của Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên quả chuông có 8 chữ "Thọ" khắc theo lối chữ triện; ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba.
Bia thời Nguyễn Phúc Chu: đây là một tấm bia đá thanh khá lớn, cao 2,6m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m đều được khắc chạm hình uyển chuyển, tinh vi. Bộ tác phẩm bằng đá này mang giá trị cao và nghệ thuật của thời các chúa Nguyễn.
Ðiện Ðại Hùng: đây là ngôi điện chính trong chùa; một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga. Trong lần trùng tu năm 1957, ngoại trừ hệ thống rui và đòn tay,còn tất cả cột, kèo, băng, bệ... đều xây bằng bê tông và phủ bên ngoài một lợp sơn giả gỗ.Trong điện ngoài những tượng Phật bằng đồng sáng chói, còn treo một cái khánh bằng đồng khá lớn chạm hình nhật nguyệt, tinh tú và khắc những dòng chữ cho biết khánh này do một vị quan người Quảng Trị là Trần Ðình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng cho chùa, và treo một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề năm 1714.
Ðình Hương Nguyện cũ: một trong những công trình kiến trúc bằng gỗ rất đặc biệt của thời vua Thiệu Trị (1841-1847) mà hiện nay còn được bảo lưu ở chùa Thiên Mụ là bộ sườn của đình Hương Nguyện. Ðình nguyên được xây ngay trước mặt tháp Phước Duyên. Trong trận bão năm Thìn (1904) đình bị đổ. Ðể cho không gian tại đây được thoáng, sau đó người ta đã đem ngôi đình cũ ấy vào dựng lại tại nền điện Di Lặc xưa để thờ Ðức Ðịa Tạng. Ðây là nguyên mẫu một ngôi nhà tứ giác độc đáo của 150 năm trước. Ðứng trong nhà nhìn lên, chúng ta thấy hình bát quái được cấu trúc khéo léo ở cái nóc duy nhất ở chính giữa. Có một số thơ chữ Hán được khảm nổi trên 56 pa-nô trang trí ở các liên ba.
Chùa Thiên Mụ bảo lưu được một số văn vật quí báu lâu đời của Phật giáo. Thiên nhiên và kiến trúc ở đây hài hòa với nhau đến mức hoàn chỉnh. Với kiến trúc uy nghiêm cổ kính, với cảnh trí thanh thoát nên thơ, chùa Thiên Mụ có thể xem là một danh lam thắng cảnh tuyệt vời của đất nước.
(*) Nguyễn Phúc Chu có sách đọc là Nguyễn Phước Châu.
Cảm ơn bạn đã ghé thăm site của MIMOSATOUR! Bạn hãy để lại lời nhận xét (comment) của mình! Hoặc bạn cũng có thể đăng kí nhận bản tin RSS. Chúng tôi hy vọng bạn thích site này của MIMOSATOUR và tìm được những thông tin bổ ích, và nếu có thể hãy thêm địa chỉ site này vào favorites của bạn để có thể ghé thăm lại. Cám ơn!